Xem bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á


Bộ cốt cá Ông được lưu giữ tại dinh Vạn Thủy Tú, Phan Thiết dài 22m, nặng 65 tấn được đánh giá là lớn nhất Việt Nam và cả Đông Nam Á.




Toạ lạc trên đường Ngư Ông, thành phố Phan Thiết, dinh Vạn Thuỷ Tú là một di tích có từ lâu đời (1762) với vẻ đẹp cổ kính, thâm nghiêm, là biểu tượng của tín ngưỡng thờ cá Ông của ngư dân Bình Thuận. Nơi đây còn là nơi lưu giữ bộ xương cá Ông lớn nhất Việt Nam và cả Đông Nam Á.
Truyền thuyết dân gian kể lại rằng sau khi xây xong, Dinh Vạn có một Ông rất lớn trôi dạt vào bờ phía trước Dinh. Ngư dân trong bổn Vạn và các bổn Vạn khác được huy động để đưa Ông vào mai táng trong khuôn viên của Dinh Vạn thủy Tú. Vì Ông quá lớn (dài 22m, nặng 65 tấn) nên phải đến 2 ngày sau mới đưa Ông vào bờ để mai táng được.
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Bộ xương cá Ông có kích thước khổng lồ với chiều dài 22m, nặng 65 tấn.
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Bộ xương cá Ông được phục dựng, đặt trên khung inox kiên cố, bên trên mô hình con thuyền lớn.
Xuất phát từ tín ngưỡng cá Ông cứu thoát ngư dân thoát nạn nơi biển cả, ngư dân tôn cá Voi làm ông Nam Hải, vị thần phù trợ người đi biển, gắn liền với nhiều truyền thuyết. Ngày nay, dọc khắp các tỉnh ven biển miền Trung, hầu như nơi nào cũng có đền thờ cá Ông.
Xưa biển Thánh, Ngài quảng sai tế độ
Nay siêu Thần, Ngài về chốn miếu môn
Từ thế kỉ XVII, những ngư dân ở các tỉnh miền Trung tới Phan Thiết để khai phá vùng đất mới, theo truyền thống của cư dân biển họ lập ra các vạn chài theo từng nhóm, làng Thuỷ Tú ra đời cùng với ước vọng một vạn chài trù phú.
Dinh Vạn Thuỷ Tú là ngôi đền được xây dựng lâu đời với kiến trúc khá đặc biệt, qua cổng tam quan về phía hữu là nhà trưng bày cốt ông Nam Hải.
Hương án chính giữa đình Vạn Thuỷ Tú thờ Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân tôn thần; bên trái thờ Thuỷ Long thánh phi nương nương tôn thần và bên phải thờ Thái hiệu tiên sư tôn thần. Phía sau là phòng lưu trữ bảo tồn những bộ cốt cá voi.
Theo ngư dân Bình Thuận, cá Ông là vị thần cứu giúp ngư dân mỗi khi gặp tai nạn trên biển, và là vị thần chung thủy với ngư dân nên được ngư dân kính yêu và tôn trọng. Mỗi khi cá Voi chết (luy) dạt vào bờ, ngư dân đầu tiên trông thấy được coi là con trai của ông và phải đứng ra làm tang lễ, chôn cất cẩn thận.
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Miếu thờ Nam Hải
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Bàn thờ Nam Hải Cự Tộc, tước hiệu của cá Ông do vua Khải Định phong tặng.
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Ngoài bộ xương cá Ông khổng lồ, dinh Vạn Thủy Tú còn lưu giữ trên 100 bộ xương cá voi lớn, nhỏ khác, trong đó có những bộ có niên đại trên 150 năm.
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Phía hữu là doi đất rộng để mai táng cá ông gọi là Ngọc Lân Thánh Địa, sau 3 năm cốt của cá ông bốc, rửa sạch và nhập tẩm trong dinh Vạn theo nghi thức trang trọng.
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Ngọc Lân Thánh địa, hay còn gọi là nghĩa trang cá Ông nằm trong khuôn viên dinh.Càng ngày, khu dân cư càng đông đúc, nên chỉ có cá Ông dài 2m mới đem chôn trong khuôn viên thánh địa.
Năm 2003 bộ cốt Ông được viện Hải Dương học Nha Trang phục chế và bảo quản tại nhà bảo tàng của dinh. Đây được coi là bộ cốt lớn nhất Việt Nam và cả vùng Đông Nam Á vẫn còn nguyên vẹn đến nay.
Hàng năm tại Dinh đều diễn ra các kì tế lễ được tổ chức trang trọng vào các ngày âm lịch: 20/2 (Tế Xuân); 20/4 (Cầu ngư); 20/6 (Chính mùa); 20/7 (Chèo dọc) và 23/8 (Mãn mùa) trong quá trình diễn ra nghi lễ còn có các hoạt động như hát bội, diễn bã trạo. hội đua ghe...
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Dinh Vạn Thủy Tú là một trong những Dinh Vạn lớn và cổ xưa nhất của nghề biển ở Bình Thuận.
Không chỉ là nơi thờ tự thủy tổ nghề biển, nơi đây còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển cộng đồng cư dân nghề cá tiêu biểu là 24 sắc phong của các đời vua triều Nguyễn ban tặng, chiếc chuông đồng đúc vào năm Nhâm Thân (1872), đến nay đã được 130 năm; thân chuông có dòng chữ "Tự Đức nhị thập ngũ niên - Xuân quý giáo đáng - Thuỷ Tú Vạn - Bổn Vạn đồng ký".
Năm 1996, Vạn Thủy Tú được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Ngày nay con đường và bến cá trước dinh được đặt tên Ngư Ông như để thể hiện niềm tôn kính của ngư dân vào sự phù trợ của ông Nam Hải, cũng như sự gắn bó giữa Ông Nam Hải với ngư nghiệp địa phương.
Cùng chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông:
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Các đốt xương vây
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á
Bạn sẽ trầm trồ khi biết mình đang chiêm ngưỡng bộ xương cá Ông lớn nhất Đông Nam Á.
Đọc Tiếp...…

Bí ẩn trong những ngôi mộ cổ ở Mũi Né

Ngày 15/9/2004 Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận có Quyết định số 4016/QĐ-CT.UBND, về việc thu hồi và cho Công ty TNHH Biển Vọng thuê đất để xây dựng khu du lịch Biển Vọng tại khu phố 13 phường Mũi Né. 

Quá trình triển khai dự án để làm thủ tục giao đất, đã phát hiện trong khu đất có 5 ngôi mộ cổ. Trong phạm vi khu mộ, mộ này cách mộ kia một khoảng không xa lắm, từ 7 - 20m, đất cát phủ đầy mộ do thời gian, không còn nhìn thấy phần kiến trúc cụ thể từng ngôi mộ. Các ngôi mộ cũng không còn nguyên hình dáng kiến trúc ban đầu, phần thì do thời gian, phần bị đập phá và có mộ bị đào trộm từ hai bên hông hoặc từ hướng chân vào. 

Có những vết xích và vết xước của máy ủi đã tác động lên mộ.
Theo lời kể của một số cụ già đã từng sinh sống gần khu vực này, khi lớn lên họ đã thấy khu mộ hoàn toàn bỏ hoang phế, không ai quản lý, không ai trông nom và thờ cúng. Chỉ có những người sống lân cận, vì thấy những ngôi mộ gần nhà, nên thỉnh thoảng cũng có nén nhang tưởng niệm những vong linh xưa.


Khai quật mộ cổ ở Mũi Né.
Để làm rõ nguồn gốc, lai lịch của khu mộ cổ truớc khi khảo sát, nghiên cứu, khai quật và di dời 5 ngôi mộ cổ, những cứ liệu dù là nhỏ nhất đã được xúc tiến, trước hết bằng việc tìm những chữ Hán trên mộ. Nhưng không thể, vì các chữ đã bị bào mòn qua năm tháng. Chứng tỏ những ngôi mộ cổ này ở đây rất lâu. Một trong 5 ngôi mộ bị cây keo to lớn đã thành cổ thụ mọc ngay thân mộ. Sức mạnh của bộ rễ đã ăn sâu và hất tung một phần thể xây, làm biến dạng của ngôi mộ kiên cố.

 Tìm hiểu nguồn gốc qua sự hiểu biết và truyền miệng trong nhân dân, một số người cho rằng: đó là mộ của người Tần trên 2.000 năm; có người cho là mộ Hời (người Chăm) và cũng có người cho rằng mộ của người Việt (Kinh)..

. Đó là những vấn đề không đơn giản, có nhiều rắc rối và phức tạp khi tìm hiểu chủ nhân của những ngôi mộ cổ và nguồn gốc tộc người ở khu vực này hơn 300 năm về trước.
Khi không thể tìm thêm nguồn thông tin nào khác thì công việc khai quật vẫn phải tiến hành để di dời đi nơi khác. Cả 5 ngôi mộ cổ lần lượt được khai quật dưới sự chứng kiến của hàng trăm người dân đến xem mỗi ngày do những lời bàn tán, đồn thổi. Mỗi ngôi mộ có một hình thù, kích thước khác nhau. Mộ thì có hình con rùa to lớn trên nắp mộ, mộ thì có hình con kỳ lân thay nấm mộ, mộ thì có hình con sư tử phủ phục trên mộ…

 Hàng trăm năm bị đất cát vùi lấp có chổ cao gần 2m, do vậy phần nhìn thấy được chỉ là phần nổi trên cát rất nhỏ. Khi khaiquật hàng chục m3 đất cát vùi lấp bên trên, ngôi mộ dần hiện rõ mới thấy mỗi mộ là một công trình kiến trúc bề thế. Và chỉ có những tầng lớp hoàng gia quý tộc, những người giàu có quyền sang vương giả… mới xây được những ngôi mộ kiên cố, kỳ công, to lớn như vậy. Cả 5 ngôi mộ cổ đều được người xưa dùng hợp chất bao quanh ngôi mộ gồm các chất: vôi sống, vôi tôi, vỏ nghêu sò hay san hô nghiền vụn, cát, chất kết dính như đường, nhựa dây tơ hồng, ô dước, giấy gió, than hoạt tính… để đúc huyệt và bao kín toàn bộ bên ngoài, tạo nên bức tường thành kiên cố không thấm nước. Những khối hợp chất này rất đặc và chắc chắn, có độ dẻo lớn và dù đã lâu đời, dãi nắng dầm mưa nhưng độ cứng và bền không thua kém bê tông ngày nay. 
Ngôi mộ cổ lớn nhất có kích thước dài 12m, rộng 8m, sau khi bóc xong lớp cát bên trên trông như một ngôi nhà lớn của người đã khuất ở thế giới bên kia. Ngôi mộ có các bộ phận kiến trúc: trụ đuốc thiên, bình phong (bình phong tiền, bình phong hậu), bia mộ, sân tế, tường bao quanh nấm mộ… Tất cả đều được trang trí điêu khắc tỉ mỉ, được lấp kỹ và chôn chặt nhiều lớp đất.
Rút kinh nghiệm từ những nơi khác, đề phòng trước khi chôn, người xưa tẩm thuốc độc quanh huyệt đề phòng trộm cắp. Chúng tôi phải xử lý rất kỹ, dùng các mũi khoan dài để khoan nhiều mũi vào bên trong huyệt mộ cho thông hơi nhiều ngày mới khai quật. Nên việc xử lý hài cốt bên trong đảm bảo vệ sinh và khoa học, trước khi đưa các cụ về nơi nghỉ mới.
Do chôn ở đây đã quá lâu, khi khai quật cả 5 ngôi mộ cổ phía trong huyệt ngập đầy nước, nên thi thể những người quá cố bị phân hủy nhanh chóng theo thời gian. Không còn một bộ xương nào nguyên vẹn, phần lớn xương cốt bị mủn nát và tan trong đất. Không thấy đồ tùy táng chôn theo người chết. Thông thường những ngôi mộ cổ to lớn và kiên cố như vậy phải có một số đồ tùy táng chôn theo. Cũng có thể đã bị bọn “mộ tặc” lấy hết trước lúc khai quật hàng chục năm. Các mộ đều có dấu tích đào bới, xáo trộn thậm chí bọn trộm còn đập nát phần bên hông huyệt mộ để tìm kiếm những thứ chúng cần tìm.
Tuy nhiên, dù không còn một bộ xương nào nguyên vẹn, không thấy đồ tùy táng chôn theo người chết. Và dù dòng chảy thời gian có thể làm nhiều thứ trên mặt đất đổi thay, nhưng những nắm xương tàn trong mộ sẽ kể lại bao câu chuyện trung thực cho chúng tôi khi nghiên cứu. Trước hết, căn cứ hợp chất được dùng xây mộ và hình thù nấm mộ như hình kỳ lân, hình bán nguyệt, hình con rùa…cùng với các hạng mục khác, như trụ đuốc thiên, bình phong, sân tế, văn bia và những hoa văn hình bông sen vốn có trong truyền thống văn hoá của dân tộc, đều có trên mộ. Đây là nét kiến trúc mộ táng tiêu biểu của người Việt cùng với sự có mặt rải rác ở các tỉnh miền Trung của Việt Nam.
Căn cứ hình dáng, cấu trúc, chất liệu của khu mộ cổ Mũi Né với khu mộ cổ cùng thời ở tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi xác định khu mộ trên ở thế kỷ XVIII. Qua khảo sát, nghiên cứu và khai quật cùng với việc so sánh, đối chiếu chủ nhân của những ngôi mộ cổ này là những người có chức quyền, vị thế trong xã hội hoặc những người đứng đầu dòng tộc giàu có mới đủ sức xây dựng những ngôi mộ bề thế, bền vững, quý phái như vậy.
Qua khảo sát, nghiên cứu và khai quật đã xác định được việc xây dựng những ngôi mộ hợp chất là nét kiến trúc mộ táng tiêu biểu và khá phổ biến của người Việt ở thế kỷ XVII, XVIII. Bác bỏ sự hiểu nhầm, thông tin không chính xác trong xã hội, nhất là nhân dân các xã, phường ven biển. Vì những thông tin và cách nhận thức từ xưa đến nay cho rằng đó là mộ Tần, mộ Hời, những cụm từ để ám chỉ những ngôi mộ trên là của người Chăm hoặc  người Trung Quốc xưa.
Dù không còn một bộ xương nào nguyên vẹn, nhưng chúng tôi cùng Công ty TNHH Biển Vọng vẫn phải đưa vào 5 tiểu sành để cải táng vào 5 phần mộ mới và khắc bia cho các cụ đặt tại nghĩa trang Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết. 
Vì công việc nên chúng tôi phải thực hiện, nhưng rất chạnh lòng mỗi lần đặt xuống mộ những nhát đục, cuốc vì cả một vấn đề tâm linh và đạo lý. Đây là những ngôi mộ cổ thuộc dạng quý hiếm về kiểu dáng và kiến trúc cũng như chất liệu tạo nên hợp chất xây mộ. Bản thân những ngôi mộ cổ là những tác phẩm về kiến trúc nghệ thuật và là thành tựu của ông cha chúng ta thời mở nước. Việc xây mộ thời trước rất tốn kém, việc chọn đất xây mộ rất khó khăn và bản thân những ngôi mộ là mốc chủ quyền của dân tộc mà tổ tiên ngầm báo với chúng ta. Nên trước lúc quy hoạch lấy đất làm khu công nghiệp, khu du lịch hay bất cứ việc gì, xin những nhà quy hoạch hãy tĩnh tâm nhìn trước, ngó sau để khỏi thất lễ với tổ tiên.
Nguyễn Xuân Lý
Đọc Tiếp...…

Khu lăng mộ Nguyễn Thông - Phú Hài - Phan Thiết

Nguyễn Thông là nhà trí thức yêu nước, nhà thơ, nhà văn và nhà hoạt động xã hội có ảnh hưởng lớn ở miền Nam nước ta nửa đầu thế kỷ XIX. Sau khi mất, theo nguyện vọng khi còn sống cụ được gia đình,bạn bè chôn cất dưới chân núi Cố thuộc xã Phú Hải, cách thành phố Phan Thiết 9km về phía Đông.  


Nguyễn Thông sinh ngày 28.5.1827 tại làng Bình Thạnh, tổng Thạch Hội Hạ, huyện Tân Thạnh, phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Ông là người học rộng, tài cao, được triều đình Huế giao giữ nhiều chức vụ quan trọng và được bổ nhiệm làm quan ở một số tỉnh, trong đó có tỉnh Bình Thuận, Vĩnh Long, Quảng Ngãi. Tuy làm quan trong triều nhưng ông rất căm thù thực dân Pháp. Những năm ở Bình Thuận Nguyễn Thông đã có ý thức chuẩn bị kế hoạch xây dựng căn cứ chống Pháp lâu dài. 
Ông đã đi rất nhiều nơi trong tỉnh Bình Thuận, đã phát hiện nhiều khu vực đất đai trù phú như khu vực sông La Ngà, Đức Linh và chính những điều tai nghe mắt thấy sau này để lại cho ra đời nhiều tác phẩm văn thơ hay. Nguyễn Thông đã tập hợp dân ”tị địa” lập ra "Đồng Châu xã” để tạo cho họ có tổ chức tương tự làm ăn sản xuất ổn định cuộc sống tại Bình Thuận sau khi lánh từ trong Nam ra.

Nguyễn Thông mua đất cất nhà tại Phan Thiết và ông coi đây là quê hương thứ hai của mình (khu vực di tích Dục Thanh hiện nay). Năm 1880 ông cất thêm một ngôi nhà nhỏ đặt tên Ngoạ Du Sào nghĩa là “Tổ nằm chơi” để đọc sách làm thơ. Đến nay trong Ngoạ Du Sào vẫn còn hai câu liễn của Nguyễn Tư Giãn tặng Nguyễn Thông cũng là hiện vật trong khu di tích Dục Thanh. Là nhà trí thức yêu nước, với vốn tích lũy nhiều, đi nhiều và hiểu biết nhiều, ông đã làm nhiều thơ văn và ra đời hàng chục quyển của các bộ “Ngọa Du Sào tập”, “Độn Am văn tập”, “Kỳ Xuyên văn sao”, “Dưỡng chính lục”....

Những năm tháng cuối đời Nguyễn Thông đã để lại cho bạn bè, gia đình và nhân dân Phan Thiết tấm lòng kính yêu. Ông mất ngày 07.7.1884 (tức 27.8 năm Giáp Thân). Mộ chí của Nguyễn Thông xây cất dưới chân núi Ngọc Sơn (núi Cố) thuộc thôn Ngọc Lâm xã Phú Hải, thành phố Phan Thiết. Lúc còn sống Nguyễn Thông thường ngày qua đây chọn núi Cố làm nơi yên nghỉ của mình. Núi Cố có nhiều cây cối, chim chóc, dưới chân núi là biển cả tạo nên phong cảnh sơn thủy hữu tình.

Ngôi mộ được xây giản dị, gần gũi như tấm lòng và con người của ông. Mộ có chiều dài 9,45m rộng 6,35 m phần chính mộ đắp hình con lân như những ngôi mộ người xưa. Trên mộ có tấm bia bằng đá, khắc chữ Hán, nội dung trên bia là bài văn bia do chính Nguyễn Thông viết : “...Sau khi ta trăm tuổi rồi, hồn phách còn nhớ đến núi này chăng? hoặc rốt cuộc cũng về chốn không còn gì chăng? Điều đó đều không thể biết được. Còn như trăng biển, buồm ngư phủ, chòi tiều phu vẽ lạ của khói mây thay đổi, hình thù của thuồng luồng chập chờn, sau này cảnh đó có thể giúp vào cuộc thưởng thức của tao nhân du khách vậy”.

Khu lăng mộ cụ Nguyễn Thông đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử năm 1999.
Đọc Tiếp...…
bang tai gia re Băng Tải Giá Rẻ
To Top Page Up Page Down To Bottom Auto Scroll Stop Scroll